Bệnh nấm diều ở bồ câu tuy không gây tỷ lệ chết cao nhưng ngay cả khi vật nuôi khỏi bệnh sẽ để lại những hậu quả như kém hấp thu, giảm tốc độ tăng trưởng, giảm năng suất vật nuôi, đường tiêu hóa bị tổn thương, các mầm bệnh khác xâm nhập vào…
Tác nhân
Bệnh do một loại nấm Candidia albicans gây ra. Đây là một loại nấm men sống hoại sinh thường xuyên trên niêm mạc đường tiêu hóa; và gây bệnh có tính chất cơ hội khi đáp ứng miễn dịch cơ thể bị suy giảm.
Bệnh này thường xảy ra ở chim bồ câu 1-2 tháng tuổi. Nguyên nhân gây bệnh có thể do thức ăn, nước uống, nước và dụng cụ uống không đảm bảo vệ sinh, nhiễm nấm hoặc dùng kháng sinh (loại phổ rộng như cyclin, phenol, penicillin). Bán tổng hợp A) Việc trộn thức ăn hoặc nước uống trong thời gian dài có thể khiến nấm phát triển trong đường tiêu hóa. Steroid lâu ngày cũng là cơ hội cho nấm phát triển. Mắc một số bệnh đường tiêu hóa; do thức ăn bị nhiễm nấm, thiếu vitamin A; suy dinh dưỡng; áp lực trong quá trình vận chuyển hoặc áp lực môi trường.
Triệu chứng
Chim bồ câu non (từ dưới 4 tuần tuổi) có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn và dễ nhận thấy các dấu hiệu bệnh lý hơn. Nó có các triệu chứng đặc trưng: đầu tiên, trên mỏ xuất hiện các vảy màu vàng nhạt, có thể dễ dàng lấy ra mà không chảy máu, diều cứng, khó tiêu hóa và có các triệu chứng hen suyễn. Tiếp theo, tại giao điểm của hầu họng và diều của chim, các đốm này ngày càng sâu hơn. Chim ăn kiêng, gầy sút, tiêu chảy, thỉnh thoảng nôn ra thức ăn có lẫn chất nhầy có mùi hôi. Đi kèm với phân sống và tiêu chảy, chim non sẽ có các triệu chứng nặng hơn chim trưởng thành và lông chậm hơn. Tăng trưởng chậm và tỷ lệ chết cao.
Bệnh tích
Mổ khám thấy có các bệnh tích ở vật bệnh gồm:
• Niêm mạc miệng và thực quản đôi khi cũng loét.
• Niêm mạc ở diều dày lên với những mụn hơi trắng. Đôi khi có màng giả ở diều. Trong diều chứa nhiều nước nhầy hôi chua.
• Dạ dày tuyến sưng hoặc xuất huyết niêm mạc. Trên niêm mạc có dịch viêm nhầy và các khối mụn trắng.
• Niêm mạc ruột non cũng bị viêm cata với nhiều dịch nhầy.
Phòng bệnh
Thực hiện phòng bệnh theo nguyên tắc đảm bảo an toàn sinh học trong chăn nuôi. Nên thực hiện kiên trì và toàn diện, đặc biệt cần đảm bảo cách ly giữa các đàn nuôi (giữa các đàn, các giống, các lứa tuổi) và với môi trường bên ngoài; vệ sinh môi trường chăn nuôi sạch sẽ, khử trùng định kỳ chuồng nuôi và môi trường xung quanh. Dọn dẹp chuồng trại, tiêu hủy chất độn chuồng, sát trùng chuồng trại ít nhất 2 lần (với lần 1 dùng CuSO4 nồng độ 0,5% phun toàn bộ chuồng trại; lần 2 dùng Iodine 20 ml/lít nước phun toàn bộ chuồng trại).
Sau khi phát hiện tình trạng bệnh, cần nhanh chóng vệ sinh thật sạch chuồng trại, khay ăn, uống của chim. Tiêu hủy hết các vật mau hỏng, ẩm, mốc trong chuồng. Cần phun sát trùng chuồng nuôi và cả khu vực chăn nuôi bằng dung dịch chứa Iodine, CuSO4 1% hoặc formol 2,5%. Loại bỏ tất cả những thức ăn bị nghi ngờ nhiễm nấm như ngô, khô dầu, đỗ tương. Cho bồ câu ăn cám gà đẻ (cho bồ câu ăn với lượng thức ăn bằng 1/10 trọng lượng của chúng).
Nâng cao sức đề kháng cơ thể vật nuôi bằng cách bổ sung men tiêu hóa, vitamin, khoáng chất.
Trị bệnh
Dùng thuốc kháng nấm (chọn dùng một trong các hoạt chất sau):
Nystatin: Dùng dung dịch hay huyễn dịch 100.000 IU/ml; pha vào nước uống hay trộn vào thức ăn theo liều 1,5 ml/kg trọng lượng; dùng liên tục 7 ngày
Ketoconazole: Dùng theo liều 10 – 20 mg/kg trọng lượng pha vào nước uống hay trộn vào thức ăn, dùng liên tục 10 – 15 ngày
Nên cho đàn uống cùng với một trong các loại kháng sinh như: Pharamox G, Pharmequin, Enroflox 5%, Orain-pharm… liên tục 5 ngày để diệt vi khuẩn bội nhiễm.
Cho bồ câu ăn/uống Phartigum B 2 g/10 kg trọng lượng/ngày hoặc 2 g/lít nước uống để giảm đau, tăng lực. Có thể hòa tan thuốc theo liều lượng cho phép, trộn đều với cám để bồ câu mẹ vừa mớm được cả thức ăn và thuốc cho bồ câu con.
Trích dẫn từ Tapchigiacam.vn
Phạm Ngân